Sét kết hay
argillit (acgilit), từ
tiếng Hy Lạp: árgillos nghĩa là [đất] sét; líthos nghĩa là đá, là
đá trầm tích hạt mịn, bao gồm chủ yếu là các hạt
sét đã chai cứng. Các dạng argillit về cơ bản là
bùn hay
bùn cửa biển bị
hóa đá. Chúng chứa các lượng hạt với kích thước cỡ
đất bùn khác nhau. Nó có thể coi là dạng trung gian giữa sét còn nặn được với đá phiến sét đã phân thành phiến mỏng. Khác với sét, sét kết có độ cứng cao hơn và không có khả năng thấm nước.Theo thành phần hóa học và khoáng vật học, argillit rất giống với đất sét, nhưng khác ở chỗ có độ cứng lớn hơn và không có khả năng bị mềm nhũn ra trong nước. Hợp thành về cơ bản từ các
khoáng vật sét kiểu
mica nước (thủy mica),
montmorillonit và
clorit với hỗn hợp các hạt
thạch anh,
mi ca,
fenspat. Tương tự như
đất sét, argillit tạo thành hoặc là các vỉa đồ sộ, hoặc là các biến thể nhiều thớ mỏng. Argillit - một dạng
đá trầm tích điển hình, đặc trưng cho các khu vực uốn nếp địa máng cũng như cho các tầng trầm tích bị nhấn chìm sâu của các nền đá.Các loại argillit biến dần thành
đá phiến sét khi quá trình hình thành các lớp có khả năng tách bóc được, đặc trưng cho đá phiến sét, được hình thành và phát triển. Tên gọi khác cho các dạng argillit hóa đá kém hơn là
đá bùn (nê nham). Các loại đá này, mặc dù biến thiên về thành phần hợp thành, nhưng thông thường có hàm lượng
nhôm và
silica (điôxít silic) khá cao với các
cation kiềm và
kiềm thổ biến thiên. Thuật ngữ
pelit thông thường được áp dụng cho các loại
đá và
trầm tích này. Sự
biến chất của argillit tạo ra
đá bản,
đá thiên mai (phyllit), và
đá phiến pelit.Các
hình chạm khắc Haida ở
quần đảo Queen Charlotte dọc theo vùng bờ biển của
British Columbia là các kho báu nghệ thuật đáng chú ý của thổ dân Bắc Mỹ, được tạo ra từ một loại argilit hạt mịn màu đen và cứng, đôi khi được gọi là "
đá bản đen", chỉ có tại mỏ đá trên
núi Slatechuck ở khu vực thượng nguồn
lạch Slatechuck, gần thị trấn
Skidegate trên
đảo Graham ("chuck" là thuật ngữ
Chinook Jargon để chỉ nước, và nó có thể có nghĩa là lạch hay hồ). Trong khi đã từng có thời, vào khoảng thập niên 1900, nó được chuyên chở tới
Victoria để sản xuất, thì ngày nay
người Haida có sự độc quyền trong việc sử dụng argillit. Những tác phẩm nghệ thuật này có chất lượng cao và được đánh giá cao trên thế giới kể từ khi người Haida bắt đầu chạm khắc nó để bán cho các thủy thủ vào khoảng năm 1800, và ngày nay, những thợ khắc người Haida hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống này, với thiết kế và các kỹ năng đáng kinh ngạc.